Giữ đèn sáng: liều thuốc cho nền kinh tế sau cú sốc về Covid
Các chính phủ nên có biện pháp nhanh chóng để duy trì đèn sáng trong nền kinh tế mà không quá lo lắng về chi phí. Rốt cuộc, con người là điều quan trọng, tiền thì rẻ và cú sốc y tế này là tạm thời
Cuộc khủng hoảng kinh tế do COVID-19 rất khác biệt so với những cuộc khủng hoảng trước đây. Nó tấn công tất cả các ông lớn trong kinh tế cùng một lúc bao gồm các quốc gia G7 và Trung Quốc. Sự đình trệ về kinh tế được diễn ra trên toàn thế giới, nó tác động đến nhiều lĩnh vực cùng một lúc. Đây không chỉ là một cuộc khủng hoảng tín dụng hay khủng hoảng ngân hàng hay khủng hoảng đầu tư tài chính hay khủng hoảng tiền tệ. Cuộc khủng hoảng này là tổng hòa từng chút của tất cả những loại khủng hoảng trên. Do tính chất nhất thời của đại dịch này, các minh chứng cho rằng các chính phủ nên tập trung vào việc “giữ đèn sáng” bằng cách sử dụng các biện pháp tuy tốn kém nhưng hiệu quả cao để đảm bảo dòng tiền tiếp tục luân chuyển trong nền kinh tế. Mục tiêu chính là làm giảm sự khủng hoảng dai dẳng và tránh hậu quả đáng tiếc như gây ra “vết sẹo kinh tế”.
Cuộc khủng hoảng kinh tế này rất khác.
Khủng hoảng kinh tế luôn giống như các chuyến xe buýt, luôn có những chuyến xe khác đi nối tiếp nhau (IMF 2020). Tuy nhiên, 1 điều khác biệt các cuộc khủng hoảng khách nằm ở 2 ý chính sau đây:
· Cú sốc cơ bản đã tấn công tất cả các quốc gia G7 và Trung Quốc cùng một lúc. Nó không giống như cuộc khủng hoảng châu Á hay toàn cầu, cuộc khủng hoảng kinh tế COVID-19 đã không bắt đầu (từ kinh tế) ở một hoặc hai quốc gia và sau đó lan sang nhiều quốc gia khác. Cú sốc dịch bệnh được đo bằng số ca mắc mới bắt đầu ở Trung Quốc vào cuối năm 2019 nhưng nó bắt đầu nhận được sự chú ý (thành đại dịch) khi các trường hợp xuất hiện ở một số quốc gia G7. Tính đến ngày 31 tháng 1 năm 2020, mỗi quốc gia G7 có ít nhất một trường hợp.
· Đại dịch tấn công nền kinh tế tại nhiều góc độ. Các cuộc nghiên cứu về khủng hoảng kinh tế cho thấy khủng hoảng được bắt đầu tại một địa điểm. Khủng hoảng ngân hàng bắt đầu từ các ngân hàng, khủng hoảng tỷ giá bắt đầu trong thị trường ngoại hối và dự trữ ngân hàng trung ương, các cuộc khủng hoảng đầu tư bắt đầu với dòng vốn quốc tế, v.v. đợt khủng hoảng này không phải như thế.
Ba loại cú sốc kinh tế
Suy nghĩ về những gì chúng ta nên làm, chúng ta cần “đơn giản hóa để làm rõ về bản chất” khi nói đến bản chất của những cú sốc kinh tế do virus đã gây ra. Theo Baldwin và Weder di Mauro 2020, Ba chìa khoá chính của vấn đề đó là:
1. Đầu tiên, căn bệnh này đánh vào đầu ra “output” bằng cách đưa người lao động vào giường bệnh, điều này giống như thất nghiệp tạm thời. Cũng giống như về mặt kinh tế hồi tháng 8 ở châu Âu khi lực lượng lao động từ chối lao động tạm thời. Ở Mỹ và một số quốc gia khác, điều này cũng có thể dẫn đến ảnh hưởng trực tiếp đến chi tiêu vì một số lao động không được trả tiền khi họ bị bệnh. Việc này cũng giống như những người trong nền kinh tế “gig – làm việc tạm thời” nơi họ không được trả tiền nếu họ không làm việc.
2. Thứ hai là các biện pháp ngăn chặn liên quan đến sức khỏe cộng đồng nhằm làm giảm sự gia tăng dịch bệnh bằng các hình thức đóng cửa nhà máy, văn phòng, cấm đi lại, cách ly và tương tự. (Baldwin 2020)
3. Thứ ba là cú sốc kỳ vọng. Như trong cuộc khủng hoảng toàn cầu năm 2008-09, cuộc khủng hoảng COVID-19 đã khiến người tiêu dùng và các công ty trên toàn thế giới phòng thủ và bật chế độ chờ xem. Điều này là ảnh hưởng rõ ràng nhất trong sự sụt giảm lớn trong du lịch và khách sạn. Nhưng có lẽ truyền thông làm quá mạnh nên những dữ liệu đó được phát hành quá nhanh. Các chỉ số hàng đầu như chỉ số quản lý mua hàng (PMI) đã giảm mạnh.
Về góc độ mất việc làm: Đâu là ba loại cú sốc gây chấn động nền kinh tế?
Cuộc khủng hoảng COVID-19 đã tấn công bộ máy kinh tế ở một số nơi cùng một lúc, như Hình 1 minh họa bằng sơ đồ
Hình 1: Nhiều người bị mất việc làm vì COVID-19 trong luồng sơ đồ thu nhập.
· Hình trên là sơ đồ dòng tiền tròn nổi tiếng (Mankiw, 2010). Ở dạng đơn giản, các hộ gia đình sở hữu vốn và lao động, họ bán cho các doanh nghiệp, các doanh nghiệp sử dụng nó để làm ra những thứ mà các hộ gia đình cần dùng và hộ gia đình phải mua bằng tiền kiếm được từ các doanh nghiệp, từ đó hoàn thành mạch và giữ cho nền kinh tế ổn định. Điểm mấu chốt là nền kinh tế chỉ tiếp tục chạy khi tiền cứ chảy quanh mạch liên tục. Nói một cách đơn giản, sự gián đoạn dòng chảy ở bất cứ đâu gây ra sự chậm lại ở mọi nơi. Biểu đồ ở đây cho biết thêm một vài sự phức tạp bằng cách cho phép một chính phủ và đầu tư nước ngoài. Nó cũng phân tách chi tiêu tiêu dùng và chi đầu tư.
· Các dấu X đỏ cho thấy ba loại cú sốc có thể hoặc làm gián đoạn dòng tiền và động lực kinh tế như nó đã từng. Nó được bắt đầu từ bên trái và di chuyển theo chiều kim đồng hồ. Các hộ gia đình không được trả tiền có thể gặp khó khăn về tài chính hoặc thậm chí phá sản, đặc biệt là ở Mỹ, nơi các hóa đơn y tế là nguyên nhân chính khiến người ta lâm vào vỡ nợ (Debt.org 2020). Điều này làm giảm chi tiêu cho hàng hóa từ đó làm ảnh hưởng tới dòng tiền đến các hộ gia đình, chính phủ và các công ty.
· Các cú sốc nhu cầu trong nước sẽ ảnh hưởng đến hàng hoá nhập khẩu của tất cả các quốc gia và kế đến là dòng tiền nước ngoài. Điều này không trực tiếp đánh vào nhu cầu trong nước nhưng nó làm giảm thu nhập nước ngoài và do đó giảm chi tiêu cho xuất khẩu hàng hóa quốc gia. Điều này có thể cắt giảm dòng tiền vào các quốc gia khác xuất phát từ doanh số xuất khẩu. Trong cuộc khủng hoảng toàn cầu 2008-09, hai khu vực thất nghiệp này đặc biệt quan trọng dẫn đến cái được gọi là sự sụp đổ thương mại lớn (Baldwin 2009, Bems et al 2012).
· Sự sụt giảm nhu cầu và hoặc cú sốc nguồn cung trực tiếp có thể dẫn đến sự gián đoạn trong chuỗi cung ứng quốc tế và trong nước. Cả hai đều tiếp tục dẫn đến giảm nhiều sản lượng đầu ra, đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất. Cú đánh vào sản xuất có làm kích hoạt hành vi “chờ xem” của mọi người và các công ty. Sản xuất đặc biệt dễ bị tổn thương vì nhiều hàng hóa được sản xuất có thể bị hoãn lại, đặc biệt đối với những thứ bạn có thể chờ đợi mà không phải trả chi phí lớn trong ít nhất vài tuần hoặc vài tháng.
· Doanh nghiệp phá sản (Benassy-Quéré 2020). Nhiều doanh nghiệp sử dụng đoàn bẩy tài chính cao những năm gần đây (BIS 2019) vì vậy họ có thể dễ bị giảm các dòng tiền. Vụ phá sản của hãng hàng không Flybe của Anh là một ví dụ kinh điển. Kiểu đóng cửa của các công ty này tạo ra sự gián đoạn hơn nữa trong dòng tiền. Các chủ nợ không được trả tiền, thường thì người lao động không được trả lương đầy đủ và trong những trường hợp này thường trở thành thất nghiệp. Nếu ở mức độ quy mô lớn, nhà cung cấp cho hoặc đối tác khách hàng đều có thể gặp nguy hiểm. Loại phá sản phản ứng dây chuyền này đã được chứng minh trong ngành xây dựng trong đối với các cuộc khủng hoảng nhà ở.
· Sa thải lao động, nghỉ ốm, cách ly hoặc nghỉ để chăm sóc trẻ em hoặc người thân bị bệnh.
Đây là bước cuối cùng nhưng có lẽ rõ ràng nhất trong các khu vực bị tấn công bởi Covid. Khi người lao động mất việc, ngay cả khi họ có bảo hiểm thất nghiệp hoặc hỗ trợ thu nhập khác, họ có xu hướng cắt giảm chi tiêu cho các mặt hàng ít cần thiết hơn và có thể hoãn lại. Các động cơ phòng ngừa có thể ít rõ ràng hơn đối với những người lao động đang còn việc hoặc nghỉ phép (có lương hoặc không lương), nhưng như đã đề cập loại nghỉ phép này không được bồi thường ở tất cả các quốc gia G7 hoặc có nhưng không lâu dài.
Chính phủ nên làm gì?
· Tôi đề nghị các nhà hoạch định chính sách nghĩ về “nền kinh tế y học” cho cuộc khủng hoảng COVID-19 theo cách như sau: Các chính phủ nên có biện pháp nhanh chóng để duy trì đèn sáng trong nền kinh tế mà không quá lo lắng về chi phí. Rốt cuộc, con người là điều quan trọng, tiền thì rẻ và cú sốc y tế này là tạm thời.
· Nguyên tắc cơ bản nên là: giữ đèn sáng. Cuộc khủng hoảng COVID-19 đã gây một sốc dịch bệnh nhưng nó sẽ tiêu tan. Nó dường như không phải là một đại dịch đặc biệt nguy hiểm vì mặc dù nhiều người sẽ chết và mỗi cái chết đều là một thảm kịch nhưng nó không giống như bệnh đại dịch khác khi tỷ trọng người chết ở mức cao và làm giảm lực lượng lao động một mức nghiêm trọng.
· Chìa khóa là để giảm sự tích lũy của vết sẹo kinh tế, giảm số vụ phá sản của cá nhân và doanh nghiệp không cần thiết, đảm bảo mọi người có tiền để tiếp tục chi tiêu ngay cả khi họ không làm việc. Một lợi ích phụ của việc này sẽ là trợ cấp cho loại tự cách ly cần thiết để làm giảm sự lây lan thêm ra động đồng. Một số kế hoạch xuất sắc về vấn đề này cũng đã được công bố. Tôi đề xuất 1 bài đó là trên www.VoxEU.org vào thứ Tư., bởi tác giả Benassy-Quéré và cộng sự.
Nguồn:
https://voxeu.org/article/how-should-we-think-about-containing-covid-19-economic-crisis
Dịch bởi UFO CREATIVE